Cư trần lạc đạo là một bài thiền kệ được trích trong bài phú cùng tên của Giác hoàng Trần Nhân Tông, được xem là biểu tượng trí tuệ tâm linh của Phật giáo Việt Nam trong thời đại nhà Trần. Bài kệ gồm bốn câu thơ Đường luật, mà giá trị triết lý nhập thế của nó đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.
Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên
Khát uống, đói ăn, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà, đừng kiếm nữa
Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền.
(Thích Nhật Từ dịch)
Ở đời vui đời
Triết lý ở đời vui đạo của bài kệ cho phép ta phân nhóm, hạnh phúc thế gian là vui đời, hạnh phúc tâm linh là vui đạo. Nền tảng của hai phương diện hạnh phúc này xoay quanh đời sống mà con người có mặt như là một hữu thể, đã phải đối diện với rất nhiều sự thật khổ đau của kiếp sống như già, bệnh, chết, thương yêu mà phải chia lìa, ghét nhau mà phải gặp gỡ, ước muốn không được thành tựu . . . Cấu trúc sinh học tâm vật lý tạo nên con người gần như không chìu theo ý mình mà nó hoạt động theo cơ chế vận hành tự nhiên của cơ thể, cho nên ta chạy theo nó nhiều hơn nó chạy theo ta.
Khái niệm 'ở đời' cho thấy đạo Phật không trốn chạy với thực tại, mà dạy con người bản lĩnh nhìn lại những gì đang diễn ra xung quanh để tìm ra nguyên nhân của nó, bao gồm những khó khăn, bế tắc, khổ đau, trở ngại và những chướng duyên, để từ đó ta làm mới nhận thức, cảm xúc, đạo đức từ khổ đau. Lúc đó bản chất của việc ở đời, sống trong môi trường của thế gian vốn nhiều sự tranh đấu, khổ đau, phiền lụy, hận thù, khủng bố, nhiều thiên tai(bao gồm sóng thần, động đất, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, bệnh dịch) và nhiều tai nạn do chính con người tạo ra, bởi sự vô minh, sân hận, tham lam, chỉ là sự trải nghiệm với trách nhiệm nhân quả.
Trong môi trường có nhiều sự bất hạnh như vậy, dù là ở quốc gia nào mà ta tìm được chất liệu vui đời cũng là điều hạnh phúc lắm rồi. Vui đời có hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là chiều hướng nhân bản tích cực, sống một cách chân thành: có đạo đức, có hạnh phúc, thuận với luật pháp, lương tâm và quy luật của đời sống. Nhờ ta sống bản lĩnh nên có được niềm vui. Đỉnh cao của niềm vui thế gian là thỏa mãn các giá trị khoái lạc giác quan, phục vụ cho mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý tưởng.
Hạnh phúc lớn nhất mà con người đạt được không phụ thuộc vật chất, vì vật chất chỉ là phương tiện tạo ra cảm giác thoải mái. Điều chính yếu là chúng ta đạt được giá trị hạnh phúc bên trong, vốn tồn tại tương đối lâu dài. Hạn chế một cách tối đa tính điều kiện dẫn đến hạnh phúc, ta có hạnh phúc bền vững hơn. Tiếp nhận 'vui đời' bằng chuỗi các điều kiện thì sự bền bỉ của nó là một thách đố: khi điều kiện hội đủ thì hạnh phúc có mặt, khi các điều kiện không hội đủ thì hạnh phúc bị thay đổi.
Góc độ thứ hai của 'vui đời' là sự hưởng thụ mà đích điểm của nó là làm cho ta càng lún sâu trong các khoái lạc, đánh mất chính mình trong hoàn cảnh của sự vui sướng. Nó kéo theo hàng loạt các phản ứng thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Người như thế chỉ sống cho bản thân và đôi lúc vượt lên trên rào cản của luật pháp và đạo đức.
Do tìm kiếm hạnh phúc, an vui của mình trên nỗi khổ niềm đau của tha nhân, nên cách 'vui đời' như thế phải đối diện với nhân quả, trong chính tự thân của nó, không ở trong hiện tại thì cũng ở trong tương lai.
Phật giáo xác định rằng nhân quả là quy luật quyết định diễn trình của mọi sự vật. Đối với con người, đó là quy luật vừa vật lý, vừa tâm lý. Có những cái ta chưa thấy hết ở hiện tại nhưng ta phải gánh lấy nó trong tương lai. Do vậy, trong cái 'vui đời' làm sao ta khai thác được mức độ tối đa các giá trị phước báo trên sự chân chính, để mỗi động tác của việc tiếp thu và hưởng phước báo này, không tạo ra tâm lý ray rứt, hối hận về sau.
Những bản án đăng trên các tờ báo hay các phương tiện truyền thông nói chung cho phép ta xác quyết rằng, về nhân quả có thể 10 năm trước, phạm nhân sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Bây giờ, khi bị phanh phui dù che không còn nữa, toàn bộ đời sống 'vui đời' bị sụp đổ hoàn toàn. Đối diện trước tù ngục gồm án tử hình hay chung thân, bản thân của người hưởng 'vui đời' bất chấp sai phạm luật pháp, mới nhận ra rằng: 'Hối hận thì đã quá muộn màng'.
Chúng tôi có cơ hội thuyết giảng 5 lần ở trại giam K.20 - huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre cho gần 2.000 phạm nhân, với mức án hình sự từ 5-20 năm tù giam. Sau những buổi thuyết giảng, tôi tiếp xúc riêng một số phạm nhân và biết rằng: khi ở trong trại, họ nghĩ tương lai của họ không còn nữa hay đã hết rồi, khi phải sống với trừng phạt. Nhiều người nghĩ chưa chắc người thân của họ thừa nhận họ khi trở về. Biết bao nhiêu sự phân biệt đối xử về phương diện xã hội sẽ có mặt.
Sau khi mãn án tù, nhiều người gặp khó khăn khi xin công ăn việc làm. Khi dò lý lịch thấy có tiền án, tiền sự nhiều người ngại ngùng và sợ hãi. Khi nghe được những bài giảng về: Tự do nội tại, Làm mới cuộc đời, Quay đầu là bờ, hay Đứng dậy sau vấp ngã . . . các phạm nhân có niềm tin rằng quá khứ xấu không phải là dấu chấm cuối cùng của cuộc sống. Nếu có những nỗ lực chân chính, ta có thể làm mới cuộc đời. Như vậy, khi vui đời trong 'vị mặn' của tha nhân là nhận lấy hậu quả xấu trong tương lai. Đó không phải là một định mệnh mà chỉ là sự hiểu lầm, dù cố tình hay là vô ý. Khi nỗ lực quay đầu, ai cũng có cơ hội để làm mới.
Ở đời vui đạo
Giá trị nhân quả của đạo Phật nằm ở chỗ giúp ta cách giải nghiệp, chứ không chấp nhận định mệnh đã được an bài. Theo đó, ta làm mới cuộc sống hàng giờ, hàng phút. Nếu trong bối cảnh ở đời vui đời mà ta hiểu được bản chất của niềm 'vui đời' là có giới hạn, thì việc đánh mất tự chủ sẽ làm ta rơi vào tình trạng gánh trách nhiệm nhân quả trước lương tâm và luật pháp. Nỗ lực hồi đầu sẽ giúp ta hướng về giá trị vui đạo. Là Phật tử, ta không thỏa mãn và không dừng lại ở kết quả 'vui đời'.
Giá trị vật chất như nhà cao cửa rộng mà Hoa kỳ và nhiều nước phương Tây đạt được, chỉ có thể là đỉnh cao của các khoái lạc giác quan, phục vụ con người như nhu cầu cần có. Nhiều người không thỏa mãn, không hài lòng với hạnh phúc vật chất nên đi tìm kiếm những giá trị tâm linh. Ở nhà rộng rãi, có sân trước sân sau, có một góc tâm linh với bàn thờ Phật trang nghiêm, người Phật tử vẫn cố gắng dành thời gian trở về chùa tu học. Đó là cách ta đang tìm kiếm những giá trị về đạo.
Mặc dù đạo có mặt ở khắp mọi nơi, sự có mặt của ta ở chùa tạo ra sự cộng hưởng tâm linh, ít nhất có giá trị khích lệ và sách tấn lẫn nhau trên phương diện hành trì, tạo niềm vui với những giá trị đóng góp cho những mảnh đời bất hạnh, cho các hoạt động văn hóa, cho các chiều kích tâm linh và nhiều hoạt động mà sự đóng góp hay có mặt của chúng ta làm cho giá trị tùy hỷ điều tốt phát triển ở mức độ lớn hơn, thì đó đều là cách thức ta vui đạo.
Đối với người tại gia, 'ở đời vui đạo' không nhất thiết phải đi tu, cũng không nhất thiết 'nhập cảng' ngôi chùa tâm linh về ngôi nhà của mình. Nhiều Phật tử tại gia nhiệt tình đến độ mỗi ngày tụng 4 thời kinh: sáng 4g khuya, trưa 11g, chiều 4g và tối 7g y hệt như trong chùa vậy. Nếu hai vợ chồng không đồng thuận, thì thọ trì như thế sẽ dẫn đến sự rầy rà. Đối với người tại gia ở đời vui đạo nên thực hiện ở một mức độ tương đối. Người tại gia đừng nên bắt chước trở thành quý Thầy hay sư Cô tại tư gia của mình.
Nhu cầu vui đạo của người tu là 100%, xả bỏ tất cả những gì thuộc thế gian, để tìm kiếm giá trị hạnh phúc và chia sẻ cho tha nhân. Người tại gia nên sống 'vui đạo' ở mức độ tương đối, có giá trị đạo đức để trong việc hưởng phước báo, không bị lún lút sâu vào chủ nghĩa hưởng thụ. Việc vui đạo ở nhà chỉ nên vừa phải thôi. Làm sao cho người vợ hay chồng trong lúc chưa thể chia sẻ giá trị 'vui đạo' của người kia, không khởi lên hiềm khích với Phật hay pháp môn hành trì của người bạn đời, nhờ đó tránh được các trở ngại trong sinh hoạt.
Vui đạo tại nhà nên theo cách giúp cho người chồng/vợ có cảm giác rằng: 'Chồng/vợ của mình tốt hơn, dễ thương hơn, cởi mở hơn, hoan hỷ hơn và tạo ra nhiều giá trị niềm vui cho gia đình hơn. Con cái thấy cha mẹ kể từ khi vui đạo trở nên dễ kính hơn. Cha mẹ nhìn thấy con cái ngày càng hiếu thảo hơn, có trách nhiệm cho tương lai, giữ được văn hóa của dân tộc Việt Nam, dù đang có mặt ở đâu'.
Như vậy, bản chất ở đời vui đạo của người xuất gia phải khác hơn người tại gia. Người tại gia không cần có nhu cầu tương tự như người xuất gia, bởi vì thực phẩm tâm linh hay niềm vui đạo ở hai bên rất khác nhau.
Trong nhiều bài giảng đây đó, tôi thường đề cập đến nhu cầu cần phải xuất bản hai bộ kinh điển: kinh điển dành cho người tại gia và kinh điển dành cho người xuất gia, với cấu trúc tương đối khác nhau.
Người tại gia cần có tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình, tham gia các công việc 'tề gia trị quốc bình thiên hạ' và các lãnh vực, ngành nghề gần như không thể không quan tâm. Trên 300.000 bài kinh được Đức Phật thuyết giảng đề cập đến các vấn đề đó rất nhiều, mà giá trị ứng dụng của nó vẫn còn thích ứng trong thời hiện đại.
Kinh điển cho người xuất gia phải khác, vì người xuất gia đi trên con đường giải thoát, hủy bỏ hết tất cả những gì thuộc về trần tục; không quan tâm và không dấn thân như là người tại gia. Người xuất gia dành thời gian phát triển tâm linh, làm sao cho sự đóng góp tiền của của người tại gia tạo ra thành quả có giá trị ở hiện tại, để đền trả lại sự cống hiến và đóng góp của tha nhân.
Kinh cho người xuất gia bao gồm các hướng dẫn về đời sống nội tâm, chuyển hóa lòng tham, lòng sân, lòng si và những kỹ năng thực tập để tháo gỡ những bế tắc trong đời sống và hướng dẫn người tại gia nghệ thuật vượt qua khổ đau. Các bài kinh này còn bao gồm những đối thoại liên tôn giáo, liên triết học và liên pháp môn giữa Thiền, Tịnh và Mật để có tinh thần dung thông, vô ngại.
Người xuất gia khi hoằng truyền Phật pháp thế nào cũng phải đối thoại một cách tình cờ hay được yêu cầu, hoặc một cách bắt buộc nào đó. Những kỹ năng đó giúp cho người xuất gia thể hiện được rõ lập trường tu học, trên con đường tu đạo và hành đạo nói chung.
Trong các nghi thức xưa nay, có những bài kinh dạy về con đường giải thoát mà người tại gia lại không cần đến nhu cầu thoát khỏi luân hồi sanh tử, chỉ mong được hạnh phúc trong tiến trình tái sanh là đủ. Như vậy, "ở đời vui đạo" của người tu mang tính chuyên sâu hơn và khác so với 'ở đời vui đạo' của người tại gia.
Hãy sống tùy duyên
Triết lý quan trọng trong ứng xử thế gian được thiền sư Trần Nhân Tông dạy là ba chữ 'hãy tùy duyên'. Đây là học thuyết nhập thế về phương diện xã hội, mà ta không thể tìm thấy trong ngôn ngữ Pali hay Sanskrit. Hãy tùy duyên là một phần ứng dụng của thuyết Bồ tát đạo trong Phật giáo.
Tùy duyên của Phật pháp khác với cái hiểu dân gian là 'cuốn theo chiều gió', hay 'nắng bên nào thì che bên đó', hoặc 'để vận mệnh trôi như lục bình trôi'. Cuốn theo và chạy theo là 'chạy theo duyên' chớ không phải tùy duyên. Tùy duyên là học thuyết ứng xử khôn ngoan trong bất kỳ hoàn cảnh thuận hay nghịch, ta vẫn có thể sống 'ở đời vui đời' và 'ở đời vui đạo' được.
Những người không có tinh thần tùy duyên thì khi thuận, cảm thấy hạnh phúc, lúc nghịch thì cảm thấy khổ đau, bị ám ảnh bởi nỗi khổ đau trong quá khứ, khổ đau trong hiện tại và khổ đau trong tương lai, làm mất hết các năng lực tìm kiếm giải pháp trị liệu cho bản thân. Ta phải xem nghịch cảnh là phương tiện, mà sự hỗ trợ của nó có thể làm cho chí nguyện của ta ngày càng lớn hơn, bản lĩnh chịu đựng ngày càng vững chãi hơn, kinh nghiệm ngày càng già giặn hơn và con đường tâm linh có chiều sâu hơn.
Nói thế không có nghĩa đạo Phật khích lệ nghịch cảnh. Giả sử ta đang sống trong nghịch cảnh mà ta không có sự lựa chọn nào khác, thì ta cần chuyển hóa tâm thức để chất liệu bình an, nhẹ nhàng, thư thái, thoải mái, thảnh thơi có mặt trong cuộc sống. Trong sáu pháp Ba la mật có tinh tấn là sự phấn đấu vươn lên trên đường đạo đức và tâm linh, khích lệ ta làm hoài, làm mãi, không ngừng nghỉ, không thỏa mãn, không tự hào, không hãnh diện. Bên cạnh đó cũng có nhẫn tức là năng lực chịu đựng nghịch cảnh. Nói đến nhẫn là nói đến nghịch cảnh.
Đức Phật dạy: 'Chiến thắng người khác mặc dù là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn rất nhiều so với chiến thắng bản thân mình'. Trong chúng ta đều có nghịch lý nội tại, khi ta muốn cái này, lúc ta lại muốn cái đối lập; khi ta quyết định làm, lúc ta quyết định rút lui. Nghịch cảnh trong đời sống nhận thức dẫn đến hành động, nếu không được kiểm soát sẽ tạo thành thói quen mà bản chất của nó là một tiến trình lệ thuộc, làm ta bị lẩn quẩn trong khổ đau.
Với học thuyết tinh tấn và nhẫn, Đức Phật đã trao chúng ta chiếc chìa khóa về sự tùy duyên, tức cách thức giúp ta vẫn có thể giữ được mối đạo, có thể tạo được chất liệu 'vui đạo' trong đời.
Tâm lý học đạo Phật chia tiến trình thuận và nghịch thành 3 bước, là vị ngọt, vị đắng và vị xuất ly.
Vị ngọt là môi trường thuận lợi, giúp con người có thể tận dụng được hết tất cả những giá trị phước báo có được, để sống hạnh phúc, bình an. Có được cơ hội tiếp xúc với giáo dục và nhiều phương diện tiến bộ khác của xã hội, ta thăng tiến trong cuộc đời. Thuận lợi được hiểu là môi trường không có chiến tranh, không hận thù, không khủng bố, không lường gạt, không giết hại lẫn nhau. Trong vị ngọt, ta ít khi nào có tâm niệm muốn xuất ly, vì chủ nghĩa hưởng thụ về thuận duyên làm ta hài lòng. Cái gì hài lòng sẽ dẫn đến tâm lý chấp trước.
Vị đắng tức là nghịch cảnh, chướng duyên, gian truân, thử thách. Hầu như những gì ta muốn đều ngược lại hoàn toàn, hoặc chỉ đạt được chừng 50%. Con người đang sống trong hoàn cảnh bị thói quen đòi hỏi bức bách vô cùng. Lúc đó, ta khởi lên ý niệm muốn thoát ly, vượt thoát khỏi.
Vị giải thoát tức là đạt được những giá trị ngược lại với vị đắng một cách chân chính.
Theo Đức Phật, mỗi người sẽ đi qua 3 tiến trình từ vị ngọt tức là thuận, rồi đến vị ngọt bị mất đi tạo thành vị đắng, từ cái nghịch ta phải tìm con đường để thoát ly. Người trí ngay trong cái thuận cũng thoát được chớ không chờ đến lúc bị nghịch mới nỗ lực thoát.
Vượt lên trên thái độ ỷ lại, sống làm chủ các giác quan được gọi là tùy duyên để đạt được 'ở đời vui đạo'. Tùy duyên để được an vui sẽ giúp ta có năng lực buông xả những khổ đau tâm lý. Chấp dính nhiều chừng nào, khổ đau sẽ hâm nóng thêm chừng ấy; lúc đó ta sẽ thành nạn nhân của chính mình.
Theo Phật giáo, 'ở đời vui đạo' phải dựa trên nền tảng 4 chữ: 'hiện tại lạc trú' hay 'hiện pháp lạc trú', tức là cách vun trồng hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại và tại đây. Đừng mơ tưởng thiên đường xa xôi hay cõi Cực lạc sau khi chết. Đừng để tâm chạy về quá khứ vì quá khứ không còn nữa. Hãy phấn đấu trong hiện tại, bằng phương pháp và tinh thần trách nhiệm. Nếu chưa thành công, ta nỗ lực lần thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư, cho đến khi nào thành công mới dừng. Học thuyết tinh tấn không cho ta bỏ cuộc nửa chừng. Tinh tấn chân chánh là tùy duyên trong cái tốt. Đừng hiểu tùy duyên là nói đến đâu làm đến đó.
Dân gian Việt Nam có câu nói diễn tả ý nghĩa tùy duyên: 'Muốn ăn hãy lăn xuống bếp'. Muốn có được thực phẩm để ăn, dù trong nhà có gạo, bánh và các gia vị nếu không chịu xuống bếp làm hoặc không nhờ người khác làm hay đi mua thực phẩm làm sẵn . . . thì không sao có thực phẩm để ăn.
Tùy duyên là nỗ lực tạo điều kiện tốt và thuận lợi nhất để có phương tiện sống tốt hơn. Không nên chấp nhận, đầu hàng hoàn cảnh và số phận. Sống tùy duyên, người Phật tử sẽ năng động. Hoàn cảnh nào sống cũng được. Gặp thuận lợi thì tốt vì đó là phước. Không thuận lợi cũng không sao, vì ta học thêm được nhiều bài học mới để trưởng thành trong đời.